Hải Hậu là huyện ven biển tỉnh Nam Định, hình thành cách đây hơn 5 thế kỷ, có tọa độ địa lý khoảng từ 20,00 đến 20,15 vĩ độ Bắc và 106,00 đến 106,21 kinh độ Đông. Phía Đông giáp huyện Giao Thủy. Từ Tây Bắc xuống Tây Nam huyện là sông Ninh Cơ, tiếp giáp với huyện Trực Ninh và Nghĩa Hưng. Phía Bắc giáp huyện Xuân Trường. Điểm cực Bắc là Trại Đập xã Hải Nam, phía Nam là biển Đông- Điểm cực Nam là mũi Gót Chàng. Diện tích 226km2, dân số hiện nay 294.216 người, trong đó đồng bào theo đạo công giáo trên 40%, được phân bố ở 32 xã và 3 thị trấn. Mật độ trung bình 1.301 người/km2.
Lịch sử hình thành và phát triển mảnh đất, con người Hải Hậu là quá trình lao động cần cù, sáng tạo để khẩn hoang lấn biển, mở đất khởi nghiệp bắt đầu từ mảnh đất Phú Cường đến xã Quần Anh và ngày nay là huyện Hải Hậu anh hùng.
Đó là kết tinh cao độ trí tuệ, mồ hôi, công sức và cả máu xương của bao thế hệ người Hải Hậu. Đó còn là một quá trình lịch sử từ không đến có, từ nhỏ đến lớn; từ hoang vu sơ khai lạc hậu đến văn minh hiện đại. Nhạc sĩ Vũ Minh Vĩ đã đúc kết trong đoạn ca từ: “… Ông cha mình nằm gai nếm mật, chân lội sình đầu đội tay bê, để bây giờ rực sáng một vùng quê…”.
Năm Quang Thuận thứ hai (1461), vua Lê Thánh Tông ban hành các chính sách khuyến nông, cụ Trần Vu cùng bàn với các đồng liêu Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập từ Tương Đông đưa quyến thuộc xuống bãi bồi Lạch Lác xin trưng khẩn. Được triều đình chấp thuận, phong cụ Trần Vu chức Doanh Điền phó sứ, đứng ra chiêu tập dân đinh, tổ chức lực lượng mở đất.
Theo gia phả dòng họ Vũ ở Tương Nam, lập từ thời Lê Vĩnh Trị (1676 -1679) do nhất trường Vũ Văn Tần lưu giữ thì “các cụ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập để lại 1.000 mẫu ruộng ở Tương Đông cho các ông Trần Lang Tướng, Đoàn Đô Quan, Nguyễn Chiêu Thảo coi giữ, lại xuống phía nam Trấn Sơn Nam trưng khẩn một bãi bồi phù sa ven biển”.
Ban đầu, các cụ đưa gia đình xuống ở bên đất Xối nước phía Bắc Lạch Lác (Xối nước có nghĩa là góc đựng nước của sông Hồng. Tên gọi lấy chữ “Xối” giống như địa danh các vùng quê cũ: Xối Đông, Xối Tây, Xối Trì, Xối Thượng…) do đất của một nhà họ Nguyễn nhượng lại, diện tích 19 mẫu, 9 sào, 3 thước Bắc Bộ (ngày nay nhân dân vẫn thường gọi vùng đất này là đất cầu ông Vu, hay cầu Ngô), làm chỗ trú chân. Ngày ngày, phụ nữ ở lại chăm sóc con cái, bếp núc, còn trai tráng đẩy thuyền sang bãi đào đất đắp vùng, chiều tối mới trở về. Nhân dân đã phải bỏ rất nhiều công sức, thời gian san đắp, vượt nền, dựng nhà. Dành khu đất cao trồng cấy, đào kênh mương dẫn nước, thau chua, rửa mặn, đến khi thành thổ cư mới đưa gia đình từ Xối Nước sang ở. Khu đất này đặt tên là Phú Cường (nay ở phía Nam liền kề Âu Múc cũ, xóm 6 xã Hải Trung). Đến đây, giai đoạn thăm dò, lập đất đứng chân trưng khẩn bãi bồi Lạch Lác của bốn dòng họ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đã hoàn thành, mở đầu cho quá trình tạo lập làng xã sau này.
Năm 1486 (Bính Ngọ, Hồng Đức thứ 17) triều đình ra lệnh cho các phủ, huyện xã rằng: “Nơi nào có ruộng đất bỏ hoang ở bờ biển mà người ít ruộng tình nguyện bồi đắp để khai khẩn nộp thuế thì phủ, huyện xét thực cấp cho làm"
Từ thời điểm này, cụ Trần Vu cùng các cụ Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đẩy mạnh công cuộc khai khẩn bãi bồi Lạch Lác.
Đất đai tiếp tục san lấp, mở rộng sang phía Tây và phía Nam Lạch Lác. Quyến thuộc các dòng họ cùng dân ly tán các xã phía Bắc kéo về ngày một đông. Đất Phú Cường trở nên chật hẹp, dần dần nhà cửa dựng nên rải khắp trên các ngọn cồn từ cửa Múc đến đầu sông Trệ. Xen kẽ với dân khẩn điền, cụ Hoàng và thân tộc ở khu cồn Cao (nay gọi là Cồn họ Hoàng). Cụ Trần, cụ Vũ ở khu cồn Bồ Đề (nay là xóm Bồ Đề Hải Anh). Cụ Phạm ở khu cồn Cát, sát đê sông Lác, phía Tây xóm Bồ Đề. Bốn vị đứng đầu các dòng họ phân công nhau phụ trách từng công việc. Trần Vu lo tổ chức lực lượng khẩn hoang. Vũ Chi phụ trách công việc kiến thiết, trị thủy. Phạm Cập chuyên giấy tờ, sổ sách, đo đạc ruộng đất dinh điền. Hoàng Gia mở trường dạy học. Đến cuối thế kỷ XV các cồn đất bãi bồi, phía Bắc giáp sông Ninh Cơ ngày nay đã được san lấp liên kết với nhau thành ấp dân cư. Các cụ đặt tên là Cồn Ấp. Lạch Lác chảy mạnh đổi tên thành sông Cường Giang. Nhân dân đắp đê Cường Giang ngăn lũ, đồng thời đắp đê Hậu Đồng, trấn giữ phía Nam ngăn nước mặn (đê ở phía Nam sông Múc 2, đoạn chảy từ Hải Trung sang Hải Anh ngày nay). Cồn đất cao san xuống bãi đất trũng. Sông Múc hình thành lấy nước từ Cường Giang về tưới tiêu, thau chua rửa mặn cho đồng ruộng.
Nối tiếp Tứ tính là Cửu tộc: Lại, Nguyễn, Lê, Bùi, Phan, Đoàn, Đỗ và Trần, Vũ phái khác lần lượt cùng về mở đất.
Từ Cồn Ấp, đất đai khẩn tiếp những vùng đất mới đều lấy chữ “Phú”, chữ “Cường” đặt tên. Đất “Phú” mở dần như Thượng Phú (Xóm Thượng), Phú Nghĩa (xóm Phe Nhì, Mộc Tây), Phú Mỹ (xóm Phe Tư), Phú Sâm (xóm Sách Sâm) (nay thuộc địa phận xã Hải Trung). Đất “Cường” mở rộng như Đông Cường, Tây Cường, Nam Cường, An Cường, Trung Cường, Ninh Cường…
Lúc này đồng đất đã rộng, người đã đông, để giữ gìn mốc giới khu khai khẩn với Quần Mông và ngăn nước mặn biển Đông tràn vào, nhân dân tập trung lực lượng đắp đê Đông. Theo “Quần Anh địa chí”, đây là đê chống mặn có vị trí quan trọng nhất, từ Bắc tới Nam hơn nghìn thước. Tương truyền chân đê nguyên là cát non, đắp rồi lại vỡ, sau phải từ chân đê đào thành đường hào, rồi chuyển đất thịt nơi khác đắp vào lòng hào để làm chân đê, từ đó đắp dần lên mới hoàn thành được.
Từ Đông sang Tây lại đắp đê Đồng Mục, ngăn nước mặn phía Nam, thân đê cấy dứa dại, tầm xuân, dứa gai chắn cát và ngăn trâu bò phá hoại.
Thời Lê Sơ, do những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế của khu vực ven biển và trong điều kiện của một chính quyền Trung ương tập quyền cao độ, công cuộc đắp đê vùng ven biển Nam Định mới được quan tâm và triển khai với quy mô lớn nhất từ trước đến đương thời.
Nửa sau thế kỷ XV trên vùng biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt, đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ.
Theo “Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược”: “Tương truyền thời cổ vùng ven biển chưa có đê bối gì cả, thường xuyên bị nạn nước biển tràn vào phá hoại, thiệt hại về người và của không sao kể được. Thời Lê niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) vua ra lệnh xuất công khố đắp lên phía Bắc từ Quảng Yên, qua Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa đến Nghệ An”. Trên địa bàn Hải Hậu, qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ Bắc Nghĩa Hưng sang Ninh Cường gần trùng với trục đường 56 ngày nay đến tận Hà Lạn, Hội Khê, dấu đê cũ còn lại những dải đất cát đốn cao như khu Nam Biên, Cồn Cối (Hải Anh, Hải Trung). “Có đoạn như Kiên Trung, Hà Lạn trông thấy như những núi đất kéo dài"[2].
Đến đây đê Hồng Đức đã hoàn thành, đê Đồng Mục không còn là đường chắn sóng. Sông Giữa giữ một vị trí trung tâm cho dân ấp đến ở dọc hai bên bờ. Đất đẹp, người đông, tứ tính, cửu tộc quyết định đổi tên Cồn Ấp thành ấp Quần Cường. Thôn, ấp hình thành một qui mô rộng rãi, dân cư hai bờ sông giữa chia làm 10 giáp (từ Giáp Nhất đến Giáp Thập) cho những người đến trước ở. Từ Đông sang Tây mỗi giáp một dong, mỗi dong có một cầu bắc qua sông Giữa để nối liền khu giáp. Riêng cầu Giáp Thập (Phe Mười) được kiến thiết theo kiểu Thượng gia hạ trì (trên nhà dưới sông). Cầu Phe Sáu và cầu Phe Ba là 2 cây cầu tống cố, kiến thiết rộng hơn. Các sách bản cũng dựng cầu đá (Sách Bản Nhất, Bản Nhì, Bản Ba…), cầu gạch, cầu gỗ, cầu tre, cầu ván, cầu đất… để nối hai bờ. Bốn biên ấp lập thành 4 thôn: Nam Cường, Bắc Cường, Đông Cường, Tây Cường cho những người đến sau ở và cũng được kiến thiết tương tự như cảnh trí trong làng.
Năm 1511, lập xã Quần Anh, năm 1827 thăng lên tổng Quần Anh. Năm 1619, An phủ sứ Vũ Duy Hoà lập làng Hà Lạn, năm 1888 thành tổng Kiên Trung. Năm 1829, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ lập Cửu An-Nhất Phúc, năm 1838 thành tổng Ninh Nhất. Năm 1864, Tiến sỹ Đỗ Tông Phát mở đất phía đông, năm 1888 thành tổng Tân Khai.
Ngày 27-12-1888, sáp nhập 4 tổng Quần Anh, Kiên Trung, Ninh Nhất, Tân Khai lập huyện Hải Hậu.
Tiếp bước ông cha, con cháu đồng lòng mở đất, năm 1890 lập thêm tổng Ninh Mỹ và năm 1893 lập tổng Quế Hải.
Trải hơn 5 thế kỷ dựng nghiệp, các Thuỷ tổ đã hun đúc nên tinh thần “Tứ tính, Cửu tộc” với nét đẹp văn hoá đặc sắc "Nếp nhà nhân hậu, phúc, đức, cần, kiệm, mây sáng, trời trong, con cháu thảo hiền". Năm 1862, Triều đình nhà Nguyễn ban tặng mảnh đất con người Hải Hậu biển vàng: "Mỹ tục khả phong" và năm 1867 ban tặng biển vàng "Thiên tục khả phong".
Tiếp nối truyền thống Thuỷ tổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, từ năm 1929 Hải Hậu đã có cơ sở Đảng ở Hội Khê Ngoại, sau cách mạng tháng 8/1945 chi bộ đầu tiên ở Hải Hậu được thành lập, đến tháng 6/1947 thành lập Huyện uỷ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Hải Hậu cùng với cả nước lập nên những chiến công vang dội; trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã bắn rơi 13 máy bay, bắn cháy 3 tàu chiến Mỹ; Nhà nước phong tặng huyện và 9 xã, thị trấn danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang; xã Hải Quang Anh hùng lao động; 128 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 11 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bước vào thời kỳ đổi mới cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện nêu cao tinh thần cách mạng, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến trên 10%. Huyện vinh dự được phong tặng Danh hiệu Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang, 2 Huân chương độc lập; từ năm 1978 đến nay liên tục giữ vững điển hình văn hoá cấp huyện của cả nước, Công ty Thuỷ nông là đơn vị Anh hùng lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển mảnh đất, con người Hải Hậu là thành quả đấu tranh kiên cường mở đất và giữ đất, là khí phách con người mãnh liệt hơn cả bão to, sóng lớn nên biển phải lùi xa, để lại cho con người ruộng lúa mênh mông, đồng lúa bát ngát và vườn cây xum suê. Đó là sự đồng cam, cộng khổ, sự cố kết cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo và nhẫn lại. Đó là những truyền thống quý báu kết tinh từ trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao thế hệ người Hải Hậu để khai phá, xây dựng và bảo vệ mảnh đất này. Và ngày nay, con người Hải hậu, dù ở quê hương hay mọi miền của Tổ quốc hay ngoài nước đều nguyện kế thừa, phát huy trong xu thế hội nhập quốc tế, xây dựng mảnh đất, con người nơi đây ngày thêm giàu mạnh văn minh.
Lịch sử hình thành và phát triển mảnh đất, con người Hải Hậu là quá trình lao động cần cù, sáng tạo để khẩn hoang lấn biển, mở đất khởi nghiệp bắt đầu từ mảnh đất Phú Cường đến xã Quần Anh và ngày nay là huyện Hải Hậu anh hùng.
Đó là kết tinh cao độ trí tuệ, mồ hôi, công sức và cả máu xương của bao thế hệ người Hải Hậu. Đó còn là một quá trình lịch sử từ không đến có, từ nhỏ đến lớn; từ hoang vu sơ khai lạc hậu đến văn minh hiện đại. Nhạc sĩ Vũ Minh Vĩ đã đúc kết trong đoạn ca từ: “… Ông cha mình nằm gai nếm mật, chân lội sình đầu đội tay bê, để bây giờ rực sáng một vùng quê…”.
Năm Quang Thuận thứ hai (1461), vua Lê Thánh Tông ban hành các chính sách khuyến nông, cụ Trần Vu cùng bàn với các đồng liêu Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập từ Tương Đông đưa quyến thuộc xuống bãi bồi Lạch Lác xin trưng khẩn. Được triều đình chấp thuận, phong cụ Trần Vu chức Doanh Điền phó sứ, đứng ra chiêu tập dân đinh, tổ chức lực lượng mở đất.
Theo gia phả dòng họ Vũ ở Tương Nam, lập từ thời Lê Vĩnh Trị (1676 -1679) do nhất trường Vũ Văn Tần lưu giữ thì “các cụ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập để lại 1.000 mẫu ruộng ở Tương Đông cho các ông Trần Lang Tướng, Đoàn Đô Quan, Nguyễn Chiêu Thảo coi giữ, lại xuống phía nam Trấn Sơn Nam trưng khẩn một bãi bồi phù sa ven biển”.
Ban đầu, các cụ đưa gia đình xuống ở bên đất Xối nước phía Bắc Lạch Lác (Xối nước có nghĩa là góc đựng nước của sông Hồng. Tên gọi lấy chữ “Xối” giống như địa danh các vùng quê cũ: Xối Đông, Xối Tây, Xối Trì, Xối Thượng…) do đất của một nhà họ Nguyễn nhượng lại, diện tích 19 mẫu, 9 sào, 3 thước Bắc Bộ (ngày nay nhân dân vẫn thường gọi vùng đất này là đất cầu ông Vu, hay cầu Ngô), làm chỗ trú chân. Ngày ngày, phụ nữ ở lại chăm sóc con cái, bếp núc, còn trai tráng đẩy thuyền sang bãi đào đất đắp vùng, chiều tối mới trở về. Nhân dân đã phải bỏ rất nhiều công sức, thời gian san đắp, vượt nền, dựng nhà. Dành khu đất cao trồng cấy, đào kênh mương dẫn nước, thau chua, rửa mặn, đến khi thành thổ cư mới đưa gia đình từ Xối Nước sang ở. Khu đất này đặt tên là Phú Cường (nay ở phía Nam liền kề Âu Múc cũ, xóm 6 xã Hải Trung). Đến đây, giai đoạn thăm dò, lập đất đứng chân trưng khẩn bãi bồi Lạch Lác của bốn dòng họ Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đã hoàn thành, mở đầu cho quá trình tạo lập làng xã sau này.
Năm 1486 (Bính Ngọ, Hồng Đức thứ 17) triều đình ra lệnh cho các phủ, huyện xã rằng: “Nơi nào có ruộng đất bỏ hoang ở bờ biển mà người ít ruộng tình nguyện bồi đắp để khai khẩn nộp thuế thì phủ, huyện xét thực cấp cho làm"
Từ thời điểm này, cụ Trần Vu cùng các cụ Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập đẩy mạnh công cuộc khai khẩn bãi bồi Lạch Lác.
Đất đai tiếp tục san lấp, mở rộng sang phía Tây và phía Nam Lạch Lác. Quyến thuộc các dòng họ cùng dân ly tán các xã phía Bắc kéo về ngày một đông. Đất Phú Cường trở nên chật hẹp, dần dần nhà cửa dựng nên rải khắp trên các ngọn cồn từ cửa Múc đến đầu sông Trệ. Xen kẽ với dân khẩn điền, cụ Hoàng và thân tộc ở khu cồn Cao (nay gọi là Cồn họ Hoàng). Cụ Trần, cụ Vũ ở khu cồn Bồ Đề (nay là xóm Bồ Đề Hải Anh). Cụ Phạm ở khu cồn Cát, sát đê sông Lác, phía Tây xóm Bồ Đề. Bốn vị đứng đầu các dòng họ phân công nhau phụ trách từng công việc. Trần Vu lo tổ chức lực lượng khẩn hoang. Vũ Chi phụ trách công việc kiến thiết, trị thủy. Phạm Cập chuyên giấy tờ, sổ sách, đo đạc ruộng đất dinh điền. Hoàng Gia mở trường dạy học. Đến cuối thế kỷ XV các cồn đất bãi bồi, phía Bắc giáp sông Ninh Cơ ngày nay đã được san lấp liên kết với nhau thành ấp dân cư. Các cụ đặt tên là Cồn Ấp. Lạch Lác chảy mạnh đổi tên thành sông Cường Giang. Nhân dân đắp đê Cường Giang ngăn lũ, đồng thời đắp đê Hậu Đồng, trấn giữ phía Nam ngăn nước mặn (đê ở phía Nam sông Múc 2, đoạn chảy từ Hải Trung sang Hải Anh ngày nay). Cồn đất cao san xuống bãi đất trũng. Sông Múc hình thành lấy nước từ Cường Giang về tưới tiêu, thau chua rửa mặn cho đồng ruộng.
Nối tiếp Tứ tính là Cửu tộc: Lại, Nguyễn, Lê, Bùi, Phan, Đoàn, Đỗ và Trần, Vũ phái khác lần lượt cùng về mở đất.
Từ Cồn Ấp, đất đai khẩn tiếp những vùng đất mới đều lấy chữ “Phú”, chữ “Cường” đặt tên. Đất “Phú” mở dần như Thượng Phú (Xóm Thượng), Phú Nghĩa (xóm Phe Nhì, Mộc Tây), Phú Mỹ (xóm Phe Tư), Phú Sâm (xóm Sách Sâm) (nay thuộc địa phận xã Hải Trung). Đất “Cường” mở rộng như Đông Cường, Tây Cường, Nam Cường, An Cường, Trung Cường, Ninh Cường…
Lúc này đồng đất đã rộng, người đã đông, để giữ gìn mốc giới khu khai khẩn với Quần Mông và ngăn nước mặn biển Đông tràn vào, nhân dân tập trung lực lượng đắp đê Đông. Theo “Quần Anh địa chí”, đây là đê chống mặn có vị trí quan trọng nhất, từ Bắc tới Nam hơn nghìn thước. Tương truyền chân đê nguyên là cát non, đắp rồi lại vỡ, sau phải từ chân đê đào thành đường hào, rồi chuyển đất thịt nơi khác đắp vào lòng hào để làm chân đê, từ đó đắp dần lên mới hoàn thành được.
Từ Đông sang Tây lại đắp đê Đồng Mục, ngăn nước mặn phía Nam, thân đê cấy dứa dại, tầm xuân, dứa gai chắn cát và ngăn trâu bò phá hoại.
Thời Lê Sơ, do những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế của khu vực ven biển và trong điều kiện của một chính quyền Trung ương tập quyền cao độ, công cuộc đắp đê vùng ven biển Nam Định mới được quan tâm và triển khai với quy mô lớn nhất từ trước đến đương thời.
Nửa sau thế kỷ XV trên vùng biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt, đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ.
Theo “Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược”: “Tương truyền thời cổ vùng ven biển chưa có đê bối gì cả, thường xuyên bị nạn nước biển tràn vào phá hoại, thiệt hại về người và của không sao kể được. Thời Lê niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) vua ra lệnh xuất công khố đắp lên phía Bắc từ Quảng Yên, qua Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa đến Nghệ An”. Trên địa bàn Hải Hậu, qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ Bắc Nghĩa Hưng sang Ninh Cường gần trùng với trục đường 56 ngày nay đến tận Hà Lạn, Hội Khê, dấu đê cũ còn lại những dải đất cát đốn cao như khu Nam Biên, Cồn Cối (Hải Anh, Hải Trung). “Có đoạn như Kiên Trung, Hà Lạn trông thấy như những núi đất kéo dài"[2].
Đến đây đê Hồng Đức đã hoàn thành, đê Đồng Mục không còn là đường chắn sóng. Sông Giữa giữ một vị trí trung tâm cho dân ấp đến ở dọc hai bên bờ. Đất đẹp, người đông, tứ tính, cửu tộc quyết định đổi tên Cồn Ấp thành ấp Quần Cường. Thôn, ấp hình thành một qui mô rộng rãi, dân cư hai bờ sông giữa chia làm 10 giáp (từ Giáp Nhất đến Giáp Thập) cho những người đến trước ở. Từ Đông sang Tây mỗi giáp một dong, mỗi dong có một cầu bắc qua sông Giữa để nối liền khu giáp. Riêng cầu Giáp Thập (Phe Mười) được kiến thiết theo kiểu Thượng gia hạ trì (trên nhà dưới sông). Cầu Phe Sáu và cầu Phe Ba là 2 cây cầu tống cố, kiến thiết rộng hơn. Các sách bản cũng dựng cầu đá (Sách Bản Nhất, Bản Nhì, Bản Ba…), cầu gạch, cầu gỗ, cầu tre, cầu ván, cầu đất… để nối hai bờ. Bốn biên ấp lập thành 4 thôn: Nam Cường, Bắc Cường, Đông Cường, Tây Cường cho những người đến sau ở và cũng được kiến thiết tương tự như cảnh trí trong làng.
Năm 1511, lập xã Quần Anh, năm 1827 thăng lên tổng Quần Anh. Năm 1619, An phủ sứ Vũ Duy Hoà lập làng Hà Lạn, năm 1888 thành tổng Kiên Trung. Năm 1829, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ lập Cửu An-Nhất Phúc, năm 1838 thành tổng Ninh Nhất. Năm 1864, Tiến sỹ Đỗ Tông Phát mở đất phía đông, năm 1888 thành tổng Tân Khai.
Ngày 27-12-1888, sáp nhập 4 tổng Quần Anh, Kiên Trung, Ninh Nhất, Tân Khai lập huyện Hải Hậu.
Tiếp bước ông cha, con cháu đồng lòng mở đất, năm 1890 lập thêm tổng Ninh Mỹ và năm 1893 lập tổng Quế Hải.
Trải hơn 5 thế kỷ dựng nghiệp, các Thuỷ tổ đã hun đúc nên tinh thần “Tứ tính, Cửu tộc” với nét đẹp văn hoá đặc sắc "Nếp nhà nhân hậu, phúc, đức, cần, kiệm, mây sáng, trời trong, con cháu thảo hiền". Năm 1862, Triều đình nhà Nguyễn ban tặng mảnh đất con người Hải Hậu biển vàng: "Mỹ tục khả phong" và năm 1867 ban tặng biển vàng "Thiên tục khả phong".
Tiếp nối truyền thống Thuỷ tổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, từ năm 1929 Hải Hậu đã có cơ sở Đảng ở Hội Khê Ngoại, sau cách mạng tháng 8/1945 chi bộ đầu tiên ở Hải Hậu được thành lập, đến tháng 6/1947 thành lập Huyện uỷ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Hải Hậu cùng với cả nước lập nên những chiến công vang dội; trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã bắn rơi 13 máy bay, bắn cháy 3 tàu chiến Mỹ; Nhà nước phong tặng huyện và 9 xã, thị trấn danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang; xã Hải Quang Anh hùng lao động; 128 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 11 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bước vào thời kỳ đổi mới cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện nêu cao tinh thần cách mạng, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến trên 10%. Huyện vinh dự được phong tặng Danh hiệu Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang, 2 Huân chương độc lập; từ năm 1978 đến nay liên tục giữ vững điển hình văn hoá cấp huyện của cả nước, Công ty Thuỷ nông là đơn vị Anh hùng lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển mảnh đất, con người Hải Hậu là thành quả đấu tranh kiên cường mở đất và giữ đất, là khí phách con người mãnh liệt hơn cả bão to, sóng lớn nên biển phải lùi xa, để lại cho con người ruộng lúa mênh mông, đồng lúa bát ngát và vườn cây xum suê. Đó là sự đồng cam, cộng khổ, sự cố kết cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo và nhẫn lại. Đó là những truyền thống quý báu kết tinh từ trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao thế hệ người Hải Hậu để khai phá, xây dựng và bảo vệ mảnh đất này. Và ngày nay, con người Hải hậu, dù ở quê hương hay mọi miền của Tổ quốc hay ngoài nước đều nguyện kế thừa, phát huy trong xu thế hội nhập quốc tế, xây dựng mảnh đất, con người nơi đây ngày thêm giàu mạnh văn minh.
Trần Quang Chiểu - Bí thư Huyện uỷ
Mình đã tìm rất nhiều trên mạng internet nhưng rất hiếm có khi là không có tài liệu nào nói về thị trấn Thị Long cả như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ... và mình đang rất cần những tài liệu đó. Rất mong quý trang " đồng hương thị trấn Thịnh Long " cho mình xin chút thông tin được không ???
Trả lờiXóaMình rất cam ơn !!!